Kết quả đề tài: |
Kết quả khảo sát về tình hình nuôi cá Chình tại tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy có 3 hình thức nuôi cá Chình hiện nay là nuôi ở ao đất 6%, nuôi trong bể xi măng 60% và nuôi bằng lồng 34%. Độ tuổi của các hộ tham gia chủ yếu từ 41 – 64 tuổi (ao đất có 33%, bể xi măng có 85%, nuôi lồng có đến 92%). Lực lượng lao động chủ yếu là nam giới (ao đất có tỉ lệ lao động nam là 100%, bể xi măng có tỉ lệ lao động nam là 85%, nuôi lồng tỉ lệ lao động là 92%). Các hộ dân nuôi cá Chình ở mô hình nuôi bể xi măng và nuôi lồng có kinh nghiệm nuôi lâu năm hơn so với ao đất cụ thể: từ 4 năm nuôi trở lên ở bể xi măng chiếm 61%, lồng chiếm 92%, trong khi đó các hộ nuôi ở ao đất chỉ chiếm 33%. Nguồn giống được các hộ dân lựa chọn sử dụng là từ Công ty TNHH Nuôi trồng thủy sản Vạn Xuân. Cá giống có kích cỡ 5 – 15 con/kg sau 2 -3 năm đạt kích cỡ thương phẩm là 3 kg/con.
Tổng chi phí trung bình cho quá trình sản xuất là 209.270.615 (VNĐ) cho mô hình nuôi bể xi măng, 166.101.125 (VNĐ) cho nuôi lồng và 165.791.667 (VNĐ) cho nuôi ao đất. Trong đó, chi phí nuôi chủ yếu là chi phí thúc ăn, chi phí giống. Nhân công được người dân tận dụng sức lao động trong gia đình. Sau mỗi vụ nuôi, người dân thu được doanh thu trung bình là 481.330.769 (VNĐ) cho mô hình nuôi bể xi măng, 305.008.333 (VNĐ) cho nuôi lồng và 312.500.000 (VNĐ) cho nuôi ao đất. Tỷ suất lợi nhuận đạt được là 1,30 cho mô hình nuôi bể xi măng, 0,84 cho nuôi lồng và 0,88 cho nuôi ao đất.
Đối với mô hình nuôi cá Chình trong bể xi măng: chi phí giống, thức ăn và chi phí cố định là những nhân tố có tác động tích cực đến thu nhập từ nuôi cá Chình. Người dân nên tăng cường đầu tư cho chi phí giống, thức ăn và chi phí xây dựng hệ thống ao và nên cân nhắc trong việc sử dung thuốc cũng như lao động. Đối với mô hình nuôi trong lồng cần tăng chi phí cho giống, thức ăn, thuốc và chi phí lao động vì đây là những nhân tố có tác động tích cực đến thu nhập từ nuôi cá Chình và cần giảm chi phí cố định vì đây là nhân tố có tác động bất lợi đến thu nhập của hoạt động nuôi cá Chình.
Kết quả phân tích thành phần chính trên hai mô hình nuôi cá chình bằng bể xi măng và bằng lồng cho thấy có 6 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của mô hình nuôi trong bể xi măng bao gồm: thành phần chính 1 (diện tích nuôi, chi phí bể, con giống, thức ăn, thuốc và hóa chất), thành phần chính 2 (trình độ học vấn, mật độ nuôi và giá bán), thành phần chính 3 (tuổi và kinh nghiệm), thành phần chính 4 (giới tính), thành phần chính 5 (thời gian nuôi), thành phần chính 6 (quản lý môi trường) đã ảnh hưởng 84,038% hiệu quả của mô hình sản xuất. Trong khi đó, ở mô hình nuôi cá chình bằng lồng có 3 thành phần chính với thành phần chính 1 gồm 9 yếu tố: giới tính, kinh nghiệm nuôi, số lồng, mật độ, thời gian nuôi, chi phí lồng, chi phí giống, chi phí thức ăn, giá bán chiếm 75% trong tổng số các yếu tố ảnh hưởng, thành phần chính 2 là 1 yếu tố đó là trình độ học vấn chiếm 8,33% và cuối cùng là thành phần chính 3 với 2 yếu tố đó là tuổi, cỡ giống chiếm phần còn lại là 16,67%.
Các giải pháp về kỹ thuật, hỗ trợ vốn và quản lý nguồn giống đã được đề xuất từ các hộ nuôi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và tính bền vững của các mô hình. |