Thông tin bài báo khoa học

Thông tin bài báo khoa học

Tên bài báo: Ứng xử với văn hóa phương Tây thời thuộc địa: cái nhìn nước đôi (ambivalence) hay phản ứng (reaction): trường hợp Vũ Trọng Phụng
Tạp chí:
ISSN: ISSN 0866-7349
Tên tạp chí Tạp chí Bài báo trên tạp chí cấp quốc gia (kể cả 2 Đại học Quốc gia) (2)
Tạp chí Trong nước
Loại tạp chí Tạp chí
Cấp tạp chí HĐCDGS
Năm đăng: 2025
Tập:
Số: 3/2025
Trang: 12-19
Lĩnh vực: Nghiên cứu văn học Việt Nam, văn học các dân tộc ít người của Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thành
File đính kèm:
  1. được hắn “làm mất nửa chữ trinh”… Cũng cần nói thêm rằng, Âu hóa thời Vũ Trọng Phụng là khá rộng chứ không chỉ tập trung vào ba trụ cột như trong Số đỏ: thời trang – thể thao – tự do yêu đương. Ông chọn ba trụ cột này để châm biếm là vì chúng tiêu biểu cho những hoạt động bề nổi của phong trào Âu hóa. Trong cái nhìn “lộn trái” của Vũ Trọng Phụng, thời trang Âu hóa là đồng lõa với kiểu ăn diện trơ trẽn, khiến phụ nữ mất hết vẻ đẹp nữ tính, kín đáo, duyên dáng; việc cổ xúy thể thao quần vợt là để khoe mẽ, làm màu; cổ xúy tự do yêu đương là để thỏa mãn thói ăn chơi trác táng của loại phụ nữ không đoan chính. Không dừng lại ở đó, nếu đọc kỹ Số đỏ, chúng ta còn bắt gặp nhiều chi tiết chống lại sự lai căng, sùng ngoại rất thú vị. Chẳng hạn, ông giễu thói sính dùng tiếng Pháp nơi công cộng của những người Việt muốn thể hiện mình là người văn minh. Trong lần xuất hiện tại Tổng cục thể thao hội quán, đối diện việc “một nhà trí thức sủa một tràng tiếng Tây”, Xuân tóc đỏ (hạ lưu) đã phản ứng bằng cách “bĩu môi”: “Xin ngài nói tiếng ta cũng đủ” và điều này đã khiến cho người kia “bẽn lẽn” vì cái tội “khinh tiếng mẹ đẻ”5. Ông cũng chế giễu sự hiểu biết về khoa học phương Tây ở mức độ sơ giản của bác sĩ Trực Ngôn và cách hiểu thô lỗ của Xuân tóc đỏ khi họ nói về bệnh dậy thì trước tuổi (với cái tật thích trần truồng, ngúng nguẩy) của cậu Phước “em chã”6. Nói tóm lại, Vũ Trọng Phụng nhìn Âu hóa như một thảm họa giáng xuống văn hóa của người Việt. Nó làm đảo lộn tất cả, khiến mọi thứ mất hết chuẩn mực từ gia đình đến xã hội, từ tầng lớp bình dân đến tầng lớp trí thức thượng lưu, từ người trần mắt thịt đến kẻ tu hành. Chuyện châm biếm sư Tăng Phú - chủ bút báo Gõ mõ - có ngoại hình không giống bậc chân tu (“có ba cái răng vàng trong mồm”, “mặc áo lụa Thượng Hải”, “trông phong tình lắm”) bày đủ trò để kiếm tiền của Phật tử, lại còn khoe mình đã châm biếm Hội Phật giáo “khiến người ta hộc máu mồm ra mà chết”, trong sâu xa, Vũ Trọng Phụng muốn cho thấy hậu quả ghê gớm của Âu hóa. Công cuộc đô thị hóa mất kiểm soát, sự lên ngôi của đồng tiền đã làm cho con người, bất kể họ là ai, đều có khả năng bị tha hóa, biến chất. Trong Số đỏ, khi nói về sự tiến bộ, văn minh của đô thị thì ngay lập tức nó bị tác giả làm mờ bằng câu chuyện hài hước chưa từng có. Đó là chuyện mấy viên cảnh sát, viên quản - những người có trách nhiệm canh giữ trật tự của thành phố nhưng lại cảm thấy chán nản và buồn bã vì người dân ngày càng văn minh nên ngày càng ít người bị phạm lỗi, tức là ít bị phạt, thành ra các vị này không thu đủ tiền phạt để nộp cho nhà nước. Té ra, văn minh cũng “có hại” đối với các vị có trách nhiệm quản lý trật tự đô thị! Thật là hài hước, mỉa mai. Kết thúc Số đỏ là “có hậu” với Xuân tóc đỏ (được vinh danh vĩ nhân cứu quốc vì nhường phần thắng cho cầu thủ nước Xiêm và nhờ vậy tránh được cuộc chiến tranh lân bang; được Chính phủ Pháp thưởng Huân chương Bắc đẩu bội tinh, được làm rể gia đình danh giá cụ cố Hồng). Tuy nhiên, chi tiết Hội Khai trí tiến đức (cái hội bị báo giới lúc bấy giờ cho là “hữu danh vô thực”) cho người đến gặp Xuân tóc đỏ để mời hắn vào hội với tư cách thành viên và đưa những từ ngữ bình dân, thô tục mà hắn thường nói hàng ngày (mẹ kiếp, chả nước mẹ gì…) vào bộ Tự điển mà Hội này đang biên soạn) thì chẳng khác gì cái tát vào công cuộc Âu hóa lúc bấy giờ. Bởi vì, Âu hóa là để dân trí được văn minh nhưng bao nhiêu công sức của Âu hóa cuối cùng cũng chỉ suy tôn một tay ma cà bông (vagabond) như một “vĩ nhân” của xã hội. Cái nhìn về Âu hóa (tiếp thu văn hóa phương Tây) của Vũ Trọng Phụng xuất phát từ địa vị của một trí thức lớp dưới – những người gắn bó chặt chẽ với người nghèo trong xã hội. Đây là tầng lớp lưu giữ sâu đậm dấu ấn văn hóa truyền thống. Họ tin vào những giá trị đã định hình hằng nghìn năm như những chuẩn mực của đạo đức, thẩm mĩ. Họ quan niệm giữ được bản sắc văn hóa là giữ được hồn cốt của dân tộc. Họ nương tựa vào văn hóa dân tộc để tồn tại và phát triển. Do vậy, việc phản ứng mạnh mẽ với văn hóa phương Tây trong tình thế bị thực dân Pháp thống trị cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, không phải mọi quan niệm của Vũ Trọng Phụng về văn hóa truyền thống đều ổn thỏa. Là người đảm nhận bổn phận phụng dưỡng mẹ già, giúp đỡ người vợ thu nhập không ổn định và chăm nuôi cô con gái còn nhỏ tuổi, Vũ Trọng Phụng luôn chứng tỏ phận sự của người con chí hiếu, người chồng và người cha chí tình. Đạo đức truyền thống dường như đã trở thành máu thịt ở nơi ông. Điều này đã khiến ông phản ứng mạnh với sự nhố nhăng, đồi bại hàng ngày diễn ra trước mắt ông (Hà Nội thời đô thị hóa) – nơi mà ông gọi là “một lũ đàn ông dâm bôn, đàn bà hư hỏng”, “một xã hội loạn dâm”. Ông sợ chúng tàn phá thuần phong mĩ tục của nước Việt. Có thể vì thế mà ông phản ứng mạnh mẽ với chủ trương “tự do yêu đương” của Tự lực văn đoàn. Bằng chứng là khi Nhất Linh xây dựng những nhân vật nữ theo Tây học đấu tranh quyết liệt với gia đình phong kiến gia trưởng, kiên quyết đoạn tuyệt với cuộc hôn nhân không do tự mình lựa chọn (Loan trong Đoạn tuyệt), Vũ Trọng Phụng “phản luận đề” bằng tiểu thuyết Lấy nhau vì tình, trong đó cuộc hôn nhân của Liêm và Quỳnh mặc dù khởi điểm là tự do yêu đương, một cuộc tình rất lãng mạn nhưng rồi nhanh chóng tan vỡ vì Liêm nghi ngờ vợ mình không chung thủy, dẫn đến Quỳnh tự tử vì cảm thấy bị chồng xúc phạm. Hoặc khi Nhất Linh và Khái Hưng viết Đời mưa gió, tác giả ca ngợi một gái giang hồ tinh tế, lãng mạn và phóng túng, đề cao tự do cá nhân hơn đời sống gia đình thì Vũ Trọng Phụng “đáp trả” bằng tiểu thuyết Làm đĩ, trong đó Huyền vì không được giáo dục về kiểm soát bản năng lại bị chồng buộc phải ứng xử với người khác giới theo văn minh phương Tây, dẫn đến việc Huyền ngoại tình với bạn của chồng. Hậu quả là Huyền bị đuổi ra khỏi nhà chồng và rơi vào cảnh làm đĩ. Qua tiểu thuyết Làm đĩ và Lấy nhau vì tình, chứng tỏ Vũ Trọng Phụng không đồng tình với chuyện tự do yêu đương. Tuy nhiên, việc phản ứng với tự do yêu đương (free love) cũng đồng nghĩa với việc chống lại xu hướng tiến bộ của người Việt đương thời khi mà kiểu hôn nhân “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã quá bất cập. Vì thế, về phương diện tình yêu và hôn nhân, Vũ Trọng Phụng chưa thấy được tính tích cực của việc giải phóng con người trong tình yêu và hôn nhân. Đến đây, có thể nói rằng vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, xét về thái độ tiếp nhận văn hóa phương Tây của tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, nếu nhìn tổng thể thì có hiện tượng nước đôi (ambivalence) vừa tiếp thu vừa dị ứng. Riêng Vũ Trọng Phụng là một trường hợp đặc biệt trong không gian văn hóa lúc bấy giờ. Ông – một nhà văn, nhà báo có tên tuổi – vừa nỗ lực tiếp thu lối viết của văn học phương Tây hiện đại (qua phóng sự và tiểu thuyết), vừa phản ứng quyết liệt trước sự bành trướng của văn hóa phương Tây và bảo vệ những giá trị truyền thống của người Việt, bất chấp có những thứ cần phải thay đổi. Chú thích: 1 Phạm Quỳnh (1892-1945) là nhà văn, nhà báo, chủ bút Tạp chí Nam Phong (1917-1934). 2 Dương Quảng Hàm ghi nhận Phạm Quỳnh “có công dịch thuật các học thuyết tư tưởng Thái tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới” (Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Hội Nhà văn, tr. 411). Vũ Ngọc Phan đánh giá “Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến triết lý, đạo giáo, cho đến chính trị, xã hội, không có vấn đề nào mà ông không tham khảo tường tận trước khi đem ra bàn trên mặt giấy” (Vũ Ngọc Phan (2000), Vũ Ngọc Phan tác phẩm, NXB Hội Nhà văn, tập 4, tr. 137). 3 Trong Lời tựa, Vũ Trọng Phụng viết: “Ở các nước văn minh, người ta không kiêng nói đến cái dâm. Trái lại, người ta còn đem cái dâm ra mà nghiên cứu, phân tích để dạy cho nhau nên dâm như thế nào…”, “Sự gặp gỡ Đông Tây trên dải đất này đã ảnh hưởng rất mạnh vào đời sống vật chất của chúng ta” (Vũ Trọng Phụng (2013), Làm đĩ, NXB Văn học, tr. 6-7). 4, 5, 6 Vũ Trọng Phụng (2008), Số đỏ, NXB Văn học, tr. 116, 175, 139.
Thuộc đề tài: 0
Liên kết: https://lyluanphebinh.vn/tin-tuc/nghien-cuu-trao-doi/3270/ung-xu-voi-van-hoa-phuong-tay-thoi-thuoc-dia-cai-nhin-nuoc-doi-ambivalence-hay-phan-ung-reaction-truong-hop-vu-trong-phung