Thông tin bài báo khoa học

Thông tin bài báo khoa học

Tên bài báo: Bước chuyển và thành tựu của phê bình văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
Tạp chí:
ISSN: ISN 0866-7349
Tên tạp chí Tạp chí Bài báo trên tạp chí cấp quốc gia (kể cả 2 Đại học Quốc gia) (2)
Tạp chí Trong nước
Loại tạp chí Tạp chí
Cấp tạp chí HĐCDGS
Năm đăng: 2025
Tập:
Số: 4/2025
Trang: 77-88
Lĩnh vực: Nghiên cứu văn học Việt Nam, văn học các dân tộc ít người của Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thành
File đính kèm:
  1. chuyên khảo có tính học thuật: Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1932-1945 (Phan Cự Đệ); Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nam Cao – Đời văn và tác phẩm (Hà Minh Đức); Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Thơ Tố Hữu (Lê Đình Kỵ); Tìm hiểu thơ Hồ Chủ tịch (Hoàng Xuân Nhị); Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945-1970, Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn học Việt Nam hiện đại (Phong Lê); Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao càng nhìn càng sáng, Tìm hương trong văn Hồ Chí Minh (Lê Trí Viễn); Nguyễn Đình Chiểu – Tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật (Vũ Đức Phúc); Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí (Nguyễn Văn Hạnh); Nguyễn Du, Thơ Hồ Xuân Hương (Nguyễn Lộc); Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (Đặng Thanh Lê); Văn thơ Phan Châu Trinh (Huỳnh Lý); Ngô Thì Nhậm trong nền văn học Tây Sơn (Mai Quốc Liên); Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại (Mã Giang Lân); Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945-1975 (Nguyễn Bá Thành); Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Trần Đăng Suyền); Văn chương nghệ thuật và thẩm mĩ tiếp nhận (Nguyễn Ngọc Thiện); Văn học phi lý (Nguyễn Văn Dân); Thẩm định các giá trị văn chương (Phan Trọng Thưởng); Nguyễn Công Hoan 1903-1977 (Lê Thị Đức Hạnh)... Bên cạnh những công trình phê bình tiêu biểu được viết dưới dạng chuyên luận, chuyên khảo còn có rất nhiều tập tiểu luận, bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí chuyên ngành trước và sau 1986 của các học giả, nhà khoa học như Trần Thanh Đạm, Mai Hương, Tôn Phương Lan, Lê Thành Nghị, Trần Thái Học... Đóng góp trước hết của phê bình Marxist ở Việt Nam là sự gợi dẫn về phương pháp luận. Vào thời điểm trước Cách mạng Tháng Tám, khi phổ biến là hai hình thức phê bình ấn tượng và phê bình khen chê (Thụy Khuê gọi là “phê bình thực nghiệm”) – cả hai đều dựa trên sự quan sát nội tại từ tác phẩm – thì những người viết phê bình theo phương pháp Marxist đã đề xuất lối phê bình dựa trên sự quan sát ngoại tại. Phê bình Marxist cắt nghĩa tác phẩm từ những bối cảnh lịch sử dựa trên các quan hệ xã hội và tâm thế của nhà văn. Vì vậy, đây là phương pháp phê bình khách quan và khoa học, có khả năng làm sáng tỏ những vấn đề mà nhà văn giãi bày, mô tả trong tác phẩm. Đóng góp quan trọng của phê bình Marxist từ góc độ thực tiễn là với hàng trăm công trình nghiên cứu tiêu biểu, những nhà phê bình Marxist đã phân tích, chỉ ra được cơ sở xã hội, bối cảnh lịch sử thời đại chi phối nội dung tư tưởng của nhiều tác phẩm, tác giả trong lịch sử văn học, đặc biệt là những tác phẩm viết theo khuynh hướng tả thực. Những biểu hiện đề cao cái được phản ánh, tuyệt đối hóa vai trò của nội dung tư tưởng chỉ xuất hiện tùy lúc, tùy người. Các tác giả phê bình thường hướng người đọc đến sự cảm nhận đầy đủ chủ đề của tác phẩm để hiểu chiều sâu tư tưởng của nhà văn. Chính các nhà phê bình Marxist là những người phát hiện và khẳng định tư tưởng nhân đạo, tư tưởng yêu nước trong nhiều tác phẩm văn học Việt Nam trung đại và hiện đại. Nhìn một cách tổng thể và cụ thể, phê bình văn học ở Việt Nam sau 1975, đặc biệt từ Đổi mới (1986) đến nay, đã có sự phát triển vượt bậc về chất và lượng. Việc nhanh nhạy chiếm lĩnh các lý thuyết phê bình hiện đại của thế giới cùng với năng lực cảm thụ tác phẩm của đội ngũ những nhà phê bình giàu kinh nghiệm và tinh tế (trong đó có những nhà phê bình trẻ) đã góp phần kiến tạo một nền phê bình văn học đậm tính học thuật ở Việt Nam sau 1975. Chú thích: 1 Chẳng hạn: Nguyễn Minh Châu cảnh báo “văn nghệ minh họa”, Hoàng Ngọc Hiến soi xét “văn học phải đạo”. 2 Dựa vào quan điểm của Hippolyte Taine – nhà sử học, nhà phê bình văn học và triết học thuộc trường phái văn hóa - lịch sử ở Pháp. 3 Chẳng hạn: Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (Đỗ Lai Thúy biên soạn với sự phối hợp của nhiều dịch giả), NXB Văn hóa - Thông tin, 2000; Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo (S. Freud, Lương Văn Kế dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000; Jung đã thực sự nói gì? (E. A. Bennet, Bùi Lưu Phi Khanh dịch), NXB Văn hóa - Thông tin, 2002; Phân tâm học và tâm linh (Đỗ Lai Thúy biên soạn), NXB Văn hóa - Thông tin, 2002; Phân tâm học và tình yêu (Đỗ Lai Thúy và các dịch giả), NXB Văn hóa - Thông tin, 2003; Freud và phân tâm học (Phạm Minh Lăng), NXB Văn hóa - Thông tin, 2004; Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ (S. Freud), NXB Thế giới, 2005; Phân tâm học và tính cách dân tộc (Đỗ Lai Thúy biên soạn), NXB Tri thức, 2007… 4 Sau này, Hải Triều đính chính lại là “vị nhân sinh”. 5 Nguyễn Ngọc Thiện (biên soạn, 2001), Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 2, NXB Lao động, tr. 572.
Thuộc đề tài: 0
Liên kết: https://lyluanphebinh.vn/tin-tuc/nghien-cuu-trao-doi/3472/buoc-chuyen-va-thanh-tuu-cua-phe-binh-van-hoc-o-viet-nam-tu-1975-den-nay